Ugali

Ugali ăn với bắp cải

Ugali hoặc còn gọi là Posho hay Sima là một loại bột ngô làm từ ngô (bắp) hoặc cám ngô ở một số quốc gia ở Châu Phi[1] Ugali đôi khi được làm từ các loại bột khác, chẳng hạn như bột kê hoặc lúa miến, và đôi khi được trộn với bột sắn. Loại bột ngô này được nấu trong nước sôi hoặc có chế thêm sữa cho đến khi đạt được độ đặc quánh giống như bột nhào hoặc đến khi có độ chắc[2]. Năm 2017, món ăn này được xếp vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại của UNESCO, là một trong số ít món ăn trong danh sách này[3]. Từ Ugali là một thuật ngữ trong ngôn ngữ châu Phi bắt nguồn từ tiếng Swahili; nó còn được gọi thông dụng là Nsima trong các ngôn ngữ Malawi như Chichewa và Chitumbuka. Ở các vùng của Kenya, món ăn còn có tên thân mật là nguna[4].

Ugali (khi được nấu thành cháo, nó được gọi là Uji) được ăn kèm với khoai lang, chuối chín, khoai tây và thậm chí cả bánh mì. Ugali dạng bánh khô thường được dùng với rau sống, món hầm hoặc Sukumawiki (còn được gọi là cải xoăn). Ugali là một loại thực phẩm thiết yếu cung cấp tinh bột phổ biến nhất trong các món ăn địa phương của vùng Hồ Lớn Châu Phi và Nam Phi. Khi Ugali được làm từ một loại tinh bột khác, nó thường được đặt tên theo vùng cụ thể[5]. Cách ăn Ugali truyền thống (và phổ biến nhất ở các vùng nông thôn) là dùng tay phải lăn một cục thành một viên rồi chấm vào nước sốt hoặc món hầm gồm rau xay nhuyễn hoặc thịt. Người ta bấm vào viên bộ tạo chỗ lõm bằng ngón tay cái để xúc và quấn quanh các miếng thịt để gắp chúng giống như cách mà bánh mì dẹt được dùng để vét đồ. Ugali còn sót lại cũng có thể được dùng với trà vào sáng hôm sau[6].

Tên gọi

Loại bột ngô này có rất nhiều tên gọi được biết đến ở các địa phương như:

Ugali trong bữa ăn hàng ngày của người Yawo
Ugali ăn với cá nhỏ
Ugali ăn với đậu ván
Ugali trong một bữa ăn
Ugali ăn với súp sệt
Nấu Ugali
Nấu Ugali
Ugali dạng bột cám ngô
  • Agidi – Người Igbo, Nigeria
  • Akple – Người Ewe, Akumè – Mina – Togo
  • Busuma [Bukusu] – Kenya
  • Bando – Người Soga, Uganda
  • BidiaCộng hòa Dân chủ Congo[7]
  • Bogobe/PhaletšheBotswana, Nam Phi
  • BugaliBurundi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Sudan, Nam Sudan, Rwanda
  • Buhobe – Người Lozi[8]
  • BuruKenya, Người Luo
  • Busima – Bagisu, Uganda
  • Chenge – Kenya, Luo
  • ChimaMozambique
  • Couscous de CameroonCameroon
  • Dona
  • Fitah – Sudan, Nam Sudan, Congo
  • Foutou – Bờ Biển Ngà
  • Fufu – Sierra Leone
  • Funge de milho – Angola (miền Bắc)
  • Sadza – Kalanga, Botswana và Zimbabwe
  • Isitshwala – Botswana, Người Ndebele
  • Isishwala – Nam Phi, Người people
  • Kawunga – Người Ganda, Uganda
  • Kimnyet – Người Kalenjin, Kenya
  • KuonKenya, Người Luo
  • Kwen wunga – tiếng Alur, Uganda
  • Lipalishi – Eswatini
  • MdokoNgười Zulu, Nam Phi
  • Mieliepap – Lesotho,[7] Nam Phi[7][9]
  • Mogo – Kenya, Luo
  • Moteke – DR Congo[7]
  • Mutuku – Nam PHi[7]
  • NfundiCộng hòa Congo[7]
  • Ngima – Người Kamba, Kenya, Người Kikuyu
  • Nkima – Kenya, Người Meru
  • Nshima – DR Congo Kasai
  • Nsima – Malawi,[7] Zambia[7]
  • Obokima – Kenya, Người Kisii
  • Obusuma – Kenya, Bộ tộc Nyole[10]
  • Eko – Nigeria, Yoruba
  • Oshifima – Namibia Người Ovambo
  • Pap – Namibia, Nam PHi[11]
  • Papa/Bogobe – Lesotho,[7] South Africa[7]
  • Pâte [Pháp] – Togo
  • Phuthu/phalishi – Người Zulu, Nam PHi[12]
  • Pirão – Angola (miền Nam)
  • PoshoUganda[13]
  • SaabGhana, Người Kusasi
  • Sadza – Người Shona[7][14]
  • Sakora – Nigeria
  • Sakoro – Ghana
  • Sembe – Tanzania, Kenya
  • Shadza – Người Kalanga, Botswana
  • Shima
  • Shishima – Zambia
  • Sima – Chewa,[15] người Tumbuka, và người Ngoni[8]
  • SoorSomalia,[7] Zambia[7]
  • Tuozafi (hoặc T.Z.) – Ghana
  • Tuwo – Hausa, Nigeria
  • Ubugali – Rwanda
  • Ubwali – Người Bemba[8]
  • Ugali – Kenya,[7] Malawi, Mozambique, Tanzania,[7] Uganda,[7] Người Yao, Swahili
  • Um'ratha – Người Ndebele, Nam Phi
  • Upswa – Mozambique[7]
  • Bohobe – Sotho, Nam Phi, Lesotho
  • Vhuswa – Người Venda, Nam Phi
  • Vuswa – Người Tsonga, Nam Phi
  • Xima – Mozambique[7]

Chú thích

  1. ^ “Ugali - a Kenyan cornmeal”. Taste Of The Place (bằng tiếng Anh). 16 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ “How to prepare ugali/posho”. Yummy (bằng tiếng Anh). 4 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2018.
  3. ^ “UNESCO - Nsima, culinary tradition of Malawi”. ich.unesco.org (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  4. ^ “Tanzanian Ugali / Nguna Recipe”. Gayathri's Cook Spot (bằng tiếng Anh). 1 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2018.
  5. ^ “HOW TO COOK THE PERFECT UGALI / Nairobi Kitchen”. HOW TO COOK THE PERFECT UGALI / Nairobi Kitchen. 15 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
  6. ^ App, Daily Nation. “Fancy a piece of ugali cake with your tea?”. mobile.nation.co.ke (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2020.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r McCann 2009, tr. 137.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFMcCann2009 (trợ giúp)
  8. ^ a b c Tembo, Mwizenge S. “Nshima and Ndiwo: Zambian Staple Food”. Hunger For Culture (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2018.
  9. ^ "Mealiepap, n." Dictionary of South African English. Dictionary Unit for South African English, 2018.[1] 25 February 2019
  10. ^ “Kenya Information Guide Home page”. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2013.
  11. ^ "Pap, n." Dictionary of South African English. Dictionary Unit for South African English, 2018. [2] 25 February 2019.
  12. ^ "Putu, n." Dictionary of South African English. Dictionary Unit for South African English, 2018.[3] 25 February 2019.
  13. ^ “Ugandan food recipes - POSHO (UGALI) – Wattpad”. www.wattpad.com. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2018.
  14. ^ "Sadza, n." Dictionary of South African English. Dictionary Unit for South African English, 2018. [4] 25 February 2019
  15. ^ Gough, Amy (2004). “The Chewa”. The Peoples of The World Foundation. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2018.

Tham khảo

  • Dangarembga, Tsitsi (1988). Nervous Conditions. Ayebia Clark Publishing. is a semi-autobiographical novel focused on the story of a Rhodesian family in post-colonial Rhodesia (present-day Zimbabwe), during the 1960s.
  • In Douglas Rogers' book The Last Resort: A Memoir of Zimbabwe (September 2009), Naomi, an elderly Malawian woman whom Rogers calls "Mrs. John", brings her husband, John Muranda, the other John, John Agoneka, and Rogers bowls of warm sadza, which Rogers explains "Mrs. John" cooks daily, over a wood fire outside the Murandas' home. (Crown/Random House, LLC, ASIN: B002PXFYIS, Chapter 4, page 23).

Liên kết ngoài

  • A brief history of maize
  • Article on nshima and ndiwo Lưu trữ 2010-01-28 tại Wayback Machine
  • BBC article about nshima
  • Basic Ugali Recipe